Bệnh dại khi lên cơn thì không thể chữa được

Bệnh dại khi lên cơn thì không thể chữa được

Dại là bệnh viêm não tủy cấp tính do virus dại gây ra từ động vật lây sang người bởi nước bọt của động vật bài tiết ra ngoài. Từ đó theo dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương.

Nguyên nhân gây ra bệnh dại là gì?

Nguyên nhân gây ra bệnh dại là do một loại virus có tên là rhabdovirus có trong nước bọt của những động vật bị bệnh dại. Động vật nhiễm bệnh sẽ lây nhiễm bệnh dại cho động vật khác hoặc con người thông qua vết cắn. Trong vài trường hợp, bệnh dại có thể được lây nhiễm qua sự tiếp xúc nước bọt với vết thương hở hoặc niêm mạc như miệng hoặc mắt. Ví dụ: Bệnh có thể lây nhiễm nếu động vật bị nhiễm bệnh liếm vết thương trên da bạn.

Nguy cơ nhiễm bệnh dại tùy vào lượng virus trong nước bọt con vật nhiều hay ít, mức độ vết thương và vị trí vết cắn (nơi có nhiều dây thần kinh hay không, khoảng cách từ vết cắn đến não, số lượng virus xâm nhập). Vết cắn càng nặng và gần thần kinh trung ương thì càng nhanh phát bệnh. 

Chẳng hạn như nếu bị chó dại cắn vào chân thì thời gian phát bệnh có thể là một tháng đến vài tháng, còn nếu bị cắn ở tay thì thời gian phát bệnh chỉ sau một tuần.

Chẩn đoán bệnh dại

Chẩn đoán bệnh dại trên người chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm sàng đặc trưng của bệnh và tiền sử phơi nhiễm với virus dại. Chẩn đoán xác định bệnh dại bằng các kỹ thuật xét nghiệm: Phát hiện kháng nguyên (FAT), phân lập virus, kỹ thuật sinh học phân tử (RT - PCR), phát hiện kháng thể (ELISA, RFFIT, FAVN).

Tuy nhiên, trên thực tế do tính nguy hiểm của bệnh dại, nên khi bị động vật nghi dại cắn, người bệnh phải được giám sát và điều trị dự phòng khẩn cấp mà không chờ chẩn đoán xác định bệnh dại ở động vật bằng xét nghiệm.

Khi phát bệnh dại có 2 thể bệnh chính

Thể thứ nhất là thể viêm não:

Người bệnh khởi đầu có cảm giác dị cảm nơi cắn, mất ngủ, bồn chồn.

Sau đó xuất hiện kích thích, sợ nước, sợ gió. Bệnh tiến triển tăng dần đến mức không thể uống nước, có những cơn co thắt hầu họng khi uống nước, khi thấy gió hoặc thậm chí chỉ nghe thấy tiếng nước chảy, gió thổi.

Bệnh nhân có tăng tiết nước bọt và không nuốt được nên thường xuyên khạc nhổ. Đồng tử giãn nên nhìn mắt bệnh nhân sáng long sòng sọc. Sau đó xuất hiện co thắt hầu họng tự nhiên, cường dương, xuất tinh tự nhiên và thường tử vong trong vòng 1 tuần kể từ khi phát bệnh.

Thể bệnh thứ 2 là thể liệt:

Người bệnh sẽ liệt lan dần từ chân đến liệt cơ tròn làm rối loạn tiểu, đại tiện liệt, lan lên liệt tay đến khi lan lên liệt cơ hô hấp thì bệnh nhân sẽ tử vong.

Lưu ý là các bệnh nhân dại sẽ tỉnh táo hoàn toàn cho đến lúc chết chứ không bị điên dại. Và không có trường hợp bị phát bệnh dại nào sủa như chó cả.

Những dấu hiệu và triệu chứng của bệnh dại?

Thời gian từ lúc nhiễm virus đến khi có triệu chứng đầu tiên mất trung bình từ 35 tới 65 ngày. Triệu chứng đầu tiên có thể là sốt, nhức đầu hoặc kiệt sức, kèm theo đó là chán ăn, buồn nôn, đau hoặc tê nơi vết cắn và có thể kéo dài từ 3 đến 4 ngày.

Sau đó, những triệu chứng ở hệ thần kinh xuất hiện, bao gồm bị kích động, lú lẫn và lo lắng kèm theo sự hiếu động thái quá, những hành vi bất thường và mất ngủ. Chứng ảo giác, sợ nước, co giật cơ và tê liệt cũng có thể xảy ra.

Đáng tiếc rằng, nếu bệnh dại không được điều trị sớm ngay sau khi bệnh nhân bị nhiễm, bệnh hầu như luôn dẫn đến hôn mê, co giật và tử vong, thường từ 4 đến 7 ngày sau khi các triệu chứng bắt đầu trở nặng.

Điều trị dự phòng bằng vaccine và huyết thanh kháng dại

Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, hiện nay chưa có thuốc đặc trị để điều trị bệnh dại, tuy nhiên có thể phòng và điều trị dự phòng bằng vaccine và huyết thanh kháng dại. Tiêm vaccine phòng bệnh dại kịp thời cho người bị chó nghi dại cắn là biện pháp hiệu quả để phòng, chống bệnh dại ở người.

Virus dại nhân lên trong cơ gần nơi bị nhiễm cho đến khi có đủ nồng độ nhiễm vào hệ thần kinh trung ương. Tiêm huyết thanh là đưa một lượng kháng thể sẵn có vào cơ thể để trung hòa virus dại, làm giảm nồng độ virus. Còn vaccine nhằm củng cố miễn dịch lâu dài về sau, vaccine phòng ngừa có tác dụng bảo vệ sau 2-8 tuần.

Nếu đưa nạn nhân đi tiêm muộn sau khi bị chó dại cắn thì huyết thanh sẽ không còn có tác dụng chỉ có thể tiêm vaccine phòng bệnh dại. 

Người bệnh có thể đến viện Pasteur, bệnh viện Nhiệt đới, bệnh viện Nhi đồng, trung tâm y tế dự phòng, đội vệ sinh phòng dịch các quận huyện để tiêm phòng dại. Tuy nhiên, riêng huyết thanh kháng dại chỉ viện Pasteur và bệnh viện Nhiệt đới mới có.

Tùy từng trường hợp cụ thể bác sĩ sẽ quyết định có nên tiêm phòng hay không. Nếu vết thương gần thần kinh trung ương (đầu, mặt, cổ, vai, tay), hoặc ở nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh (đầu chi, bộ phận sinh dục) thì cần phải tiêm cả huyết thanh kháng dại (SAR) và vaccine dại.

Theo tình trạng vết thương

Theo hướng dẫn của WHO có thể phân loại 3 cấp độ:

  • Cấp độ I: Khi người sờ hay cho súc vật ăn, hoặc súc vật liếm trên da thì không điều trị nếu con vật có tiền sử đáng tin cậy.
  • Cấp độ II: Khi súc vật gặm vùng da trần, những vết cào xước nhẹ không chảy máu hoặc liếm trên da có vết trầy thì nên tiêm vaccine ngay.
  • Cấp độ III: Khi có một hay nhiều vết cắn hoặc cào xuyên thấu da, niêm mạc bị nhiễm nước dãi của súc vật, thì phải tiêm kháng huyết thanh và vaccine phòng dại ngay lập tức.

Do dại là một bệnh nặng, nên phụ nữ đang mang thai không chống chỉ định tiêm, không được thay đổi lịch tiêm phòng khi biết đang có thai. Có thể tiêm vaccine phòng bệnh dại khi đang cho con bú sữa mẹ trong trường hợp cần thiết.

Theo tình trạng động vật

Những trường hợp người bị súc vật cắn phải đi tiêm phòng vaccine dại và huyết thanh kháng dại ngay:

  • Con vật lên cơn dại hoặc nghi dại.
  • Không theo dõi được con vật.
  • Tại nơi người bị súc vật cắn đang có hoặc trước đó đã từng có súc vật bị dại.

Những trường hợp chỉ cần theo dõi chó, mèo

Trường hợp vết cắn rất nhẹ, vết cắn xa thần kinh trung ương (ví dụ ở cẳng chân). Tại thời điểm con vật cắn người, con vật đó vẫn sống bình thường, hoàn toàn không có dấu hiệu nghi ngờ dại. Tại nơi bị con vật cắn, không phát hiện có bệnh dại ở súc vật.

Cần theo dõi con vật 15 ngày. Trong thời gian theo dõi, nếu thấy con vật có biểu hiện không bình thường như ốm, bỏ ăn, chết, mất tích, bán hoặc mổ thịt… Phải đến điểm tiêm phòng dại để được điều trị dự phòng ngay. Nếu sau 15 ngày kể từ khi người bị con vật cắn, tiếp xúc mà con vật đó vẫn sống bình thường thì không cần điều trị dự phòng.

Bệnh dại khi lên cơn thì không thể chữa được

BV Bệnh Nhiệt đới Trung ương là nơi thường xuyên các bác sĩ tiếp nhận các trường hợp bệnh nhân lên cơn dại. BS. Nguyễn Trung Cấp - khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới Trung ương cho biết, anh và các đồng nghiệp rất bị ám ảnh bởi những cái chết của bệnh nhân lên cơn dại. Điều đau xót nhất, đáng tiếc nhất, đó là bệnh dại khi đã lên cơn thì không thể chữa được.

Bệnh nhân biết mình sẽ chết, bác sĩ, người nhà đều đau lòng bởi thấy chết mà không thể cứu được.

Chỉ mong quay ngược lại thời gian, họ đi tiêm phòng. Bởi, nếu bị chó nguy cơ dại cắn, người bệnh đi tiêm phòng vaccine ngay, đủ mũi, thì tỷ lệ bảo vệ gần như 100%. Sau đó con chó có chết vì bệnh dại, bệnh nhân đã được tiêm phòng cũng không phát bệnh.

Cũng theo BS. Cấp, bệnh dại có một đặc thù là ủ bệnh, phát hiện rất muộn. Thời gian ủ bệnh sau khi bị cắn thường vài tuần, có thể lâu hơn vài tháng thậm chí hàng năm tùy thuộc vào số lượng và mức độ tổn thương và vị trí của vết cắn có gần thần kinh trung ương hay không.

Vì thế, có người bệnh khởi phát dại khi vết thương đã liền da, không còn dấu vết gì của chó cắn, thậm chí người ta đã quên mất việc bị chó cắn.

Do đó, các bác sĩ khuyến cáo, khi bị chó cắn cần rửa ngay vết thương với xà phòng và dưới vòi nước chảy liên tục trong thời gian khoảng 10-15 phút. Sau đó vết thương cần được rửa kỹ với cồn 70% hoặc cồn iod và đưa ngay bệnh nhân đến cơ sở y tế để được tư vấn tiêm phòng vaccine và huyết thanh kháng dại càng sớm càng tốt.

Thời gian ủ bệnh

Virus dại thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus, có vật liệu di truyền là ARN, vỏ ngoài là lipid. Virus dại có sức đề kháng yếu, có thể bất hoạt ở nhiệt độ 56 độ C trong vòng 30 phút và 2 phút ở nhiệt độ 70 độ C; dễ bị phá hủy bởi các chất hòa tan lipid (xà phòng, ether, chloroform, acetone).

Virus dại cũng bị mất độc lực dưới ánh sáng và các chất sát khuẩn ở nồng độ 2-5%. Nếu trong điều kiện lạnh 4 độ C, virus sống được từ vài tuần đến 12 tháng, ở nhiệt độ dưới 0 độ C, sống được từ 3 - 4 năm. 

Sau khi xâm nhập vào cơ thể người, virus dại phát triển từ lớp trong cùng của mô dưới da hoặc từ cơ bắp tiến vào các dây thần kinh ngoại biên (tức là các dây thần kinh trong cơ thể con người nằm ngoài não hoặc tủy sống).

Virus dại di chuyển chậm

Sau đó, virus dại di chuyển dọc theo các dây thần kinh tới tủy sống và não bộ với tốc độ khoảng 12-24 mm mỗi ngày.

Người bị nhiễm bệnh sẽ có những thay đổi hành vi và có những biểu hiện lâm sàng khi virus bắt đầu xâm nhập vào não bộ.

Do di chuyển chậm, thời gian ủ bệnh dại có thể từ 10 ngày đến 8 tuần hoặc có thể dài trên 1 năm.

Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào số lượng virus xâm nhập vào cơ thể, sự nặng nhẹ của vết thương, khoảng cách xa gần từ vết thương đến não bộ và khả năng miễn dịch của bệnh nhân. Vết thương nặng và càng gần thần kinh trung ương thì thời gian ủ bệnh càng ngắn.

Nếu vùng bị cắn ở đầu và cổ, cũng như những vết thương ở các khu vực đầu mút thần kinh như ngón tay sẽ có thời gian ủ bệnh ngắn hơn do khoảng cách virus xâm nhập vào mô thần kinh gần hơn.

Phác đồ điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho người chưa tiêm phòng dại

Tiêm vaccine phòng dại

  • Nguyên tắc: Áp dụng 1 trong 2 phác đồ tiêm vaccine phòng dại bằng phác đồ tiêm bắp hoặc phác đồ tiêm trong da; mũi đầu tiên tiêm càng sớm càng tốt ngay sau khi bị phơi nhiễm.
  • Việc tiêm trong da sẽ giảm lượng vaccine và giá thành, tuy nhiên tùy thuộc vào số lượng người đến tiêm vaccine phòng dại tại điểm tiêm trong ngày để lựa chọn phác đồ tiêm bắp hay tiêm trong da nhằm bảo đảm chi phí hiệu quả.

Tiêm huyết thanh kháng dại

  • Nguyên tắc: Tiêm huyết thanh kháng dại càng sớm càng tốt ngay sau khi bị phơi nhiễm và chỉ dùng 1 lần trong điều trị. 
  • Tiêm phong bế tại vùng vết thương bị động vật cắn để huyết thanh kháng dại thấm sâu vào bên trong và xung quanh vết thương tới mức tối đa. Phần huyết thanh còn lại tiêm bắp sâu ở vị trí cách xa vị trí tiêm vaccine dại. Các vết thương ở vị trí giải phẫu đặc biệt (như các đầu ngón tay) phải thấm đẫm một cách cẩn thận. Trong trường hợp bị nhiều vết cắn mà số lượng huyết thanh cần tiêm không đủ nhiều để tiêm cho toàn bộ các vết thương (do cân nặng của bệnh nhân ít) thì pha loãng huyết thanh từ 2-3 lần với nước muối sinh lý để đảm bảo tất cả các vết thương đều được tiêm huyết thanh kháng dại.
  • Trường hợp không có huyết thanh kháng dại tại điểm tiêm vaccine có thể sử dụng phác đồ tiêm bắp, nhưng tiêm 2 liều vaccine phòng dại (ở 2 bên cánh tay) vào ngày 0 (ngày đầu tiên bệnh nhân đến), và giới thiệu bệnh nhân đến điểm tiêm khác để tiêm huyết thanh kháng dại. Ngoài ra đối với vết thương độ II ở những người bị ức chế miễn dịch nên sử dụng huyết thanh kháng dại.
  • Thời gian chỉ định tiêm huyết thanh: Tiêm càng sớm càng tốt ngay sau khi bệnh nhân bị động vật nghi dại cắn và chưa có dấu hiệu lên cơn dại. Không sử dụng huyết thanh kháng dại sau 7 ngày kể từ mũi tiêm vaccine đầu tiên.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...