Ảnh hưởng của việc xạ trị đối với ung thư vú
Trong một nghiên cứu kéo dài 10 năm của những phụ nữ được điều trị bằng xạ trị ở ung thư vú giai đoạn đầu, những trường hợp này thường ít tiếp nhận điều trị va tỷ lệ bị tác dụng phụ gây ra tương tự như những trường hợp xạ trị thông thường. Kết quả cho thấy từ thử nghiệm lâm sàng FAST đã được trình bày tuần trước tại Hội nghị Thường niên lần thứ 60 của Hiệp hội Ung thư Bức xạ Hoa Kỳ (ASTRO).
Nghiên cứu này cho thấy có thể tìm ra phác đồ điều trị cho phép bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu chỉ cần điều trị 1 tuần/lần thay vì điều trị mỗi ngày trong vòng 5 tuần trong cùng một khoảng thời gian, Murray Brunt, tác giả chính của nghiên cứu này cho biết. Phát hiện trên sẽ giúp các bác sĩ thảo luận về những rủi ro và lợi ích đối với bệnh nhân khi tham gia vào xạ trị và đưa ra hướng điều trị thích hợp cho bệnh nhân.
Nghiên cứu này là một báo cáo dài hạn về thử nghiệm FAST (FASTer Radiotherapy cho bệnh nhân ung thư vú ), được đưa ra để đánh giá những thay đổi trong mô vú khỏe mạnh sau khi được điều trị bức xạ thông thường so với hai phác đồ điều trị trong thời gian ngắn. Cuộc thử nghiệm, do Viện nghiên cứu ung thư London dẫn đầu, đã nghiên cứu 915 trường hợp phụ nữ bị ung thư vú xâm lấn giai đoạn đầu tại 18 trung tâm trên khắp nước Anh từ năm 2004 đến năm 2007.
Kết quả thử nghiệm ban đầu của thử nghiệm FAST, được công bố trên Radiotherapy and Oncology năm 2011, chỉ ra rằng liệu pháp giảm xóc 1 lần/tuần đã dẫn đến các hiệu ứng mô bình thường tương tự như các điều trị thông thường sau 2 năm điều trị. Nghiên cứu hiện tại xác nhận rằng cần thêm 8 năm nữa để có thể nghiên cứu những điểm tương đồng này tồn tại.
Những kết quả này có thể hỗ trợ cho bệnh nhân lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp hơn, hạn chế được số lần chữa trị tại bệnh viện và cũng giảm được chi phí cho bệnh nhân, mà không làm tăng nguy cơ tác dụng gây ra tác dụng phụ trong thời gian dài, Joanne Haviland nhà thống kê cao cấp của nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Ung thư, cho biết.
Bệnh nhân trong thử nghiệm được phân ngẫu nhiên vào một trong ba phác đồ điều trị bức xạ toàn bộ vú sau phẫu thuật: điều trị thông thường với 50 Xám (Gy) của bức xạ được sử dụng trong 25 ngày, 2 liều lượng nhỏ Gy được sử dụng điều trị trong năm tuần hoặc điều trị giảm hấp thu với một trong hai liều sau đây: 30 Gy được sử dụng điều trị trong vòng một năm, 1 lần/tuần cho 6 Gy, hoặc 28,5 Gy được sử dụng trong vòng một năm, 1 lần/ tuần cho 5,7 Gy. Sau khi điều trị, bệnh nhân sẽ được đánh giá hàng năm cho các hiệu ứng mô vú khỏe mạnh bao gồm phản ứng da, làm xơ cứng vú, thay đổi hình dạng và kích thước vú.
Ngoài ra, tỷ lệ tác động lâu dài hoặc trung bình đến mô bình thường thấp ở tất cả các nhóm điều trị. Các ảnh hưởng nghiêm trọng đã được quan sát thấy ở 13 trường hợp trong số 774 phụ nữ (1,7%) trong dữ liệu theo dõi sau 5 năm, và 9 trường hợp trong số 392 phụ nữ (2,3%) trong dữ liệu theo dõi sau 10 năm. Tuy nhiên, thử nghiệm trên cho thấy không có thay đổi hoặc thay đổi nhỏ nào trong mô bình thường đã được quan sát thấy ở 88% phụ nữ trong từng năm và 86% phụ nữ trong vòng 10 năm.
Hiệu ứng mô bình thường chậm thường không khác biệt và được thống kê giữa nhóm điều trị thông thường với nhóm 28,5 Gy trong 5 năm hoặc 10 năm sau điều trị. Tuy nhiên, các tác dụng muộn trung bình thường gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với mô vú bình thường sẽ cao hơn đối với những bệnh nhân được điều trị với liều lượng 5 lần/30-Gy. Những bệnh nhân này có khả năng trải qua những trường hợp bị co ngực vừa phải hoặc có thể nặng hơn (p <0,001), độ cứng (p = 0,004), tích tụ dịch (p <0,001) và tĩnh mạch nhện (p = 0,02).
Trong số các bệnh nhân được thử nghiệm hàng ngày trên một phần của cánh tay, khi đó các bác sĩ sẽ quan sát thấy hiệu ứng mô bình thường ở 7,5% sau 5 năm và 9,1% trong 10 năm. Và bằng cách so sánh, tỷ lệ cho thấy liều lượng được thử nghiệm trên cánh tay khoảng 30-Gy chiếm khoảng 5%/năm, 18%/5 năm (p <0,001) và 18,4%/10 năm (p = 0,04).
Nghiên cứu trên cho thấy các tác dụng phụ đối với mô vú bình thường là tương tự giữa nhóm 28,5 Gy và nhóm 50 Gy, nhưng tỷ lệ sẽ cao hơn sau khi thử nghiệm với liều lượng 30 Gy được đưa ra trong 5 lần/5tuần, Giáo sư Brunt nói. Độ nhạy của liều lượng 30 Gy được sử dụng 5 lần/5tuần tương đương với tổng liều bức xạ 57,3 Gy, trong khi 28,5 Gy được sử dụng 5 lần/5tuần tương đương với tổng liều bức xạ 52,5 Gy. Tính toán cho thấy rằng 27,75 Gy được sử dụng 5 lần/5tuần tương đương với tổng liều bức xạ 50 Gy trong năm tuần.
Các nhà nghiên cứu cũng đánh giá các khối u vú xâm lấn ở giai đoạn đầu sẽ đáp ứng với phẫu thuật và xạ trị như thế nào. Tỷ lệ tái phát cục bộ 10 năm đối với tất cả bệnh nhân trong thử nghiệm là 1,3% (95% CI 0,7, 2,3), tổng cộng chỉ có 10 sự kiện được báo cáo, nhằm cân bằng giữa các nhóm điều trị. Thử nghiệm trên không được thiết kế để kiểm tra sự khác biệt về tỷ lệ tái phát giữa các nhóm điều trị.
Theo kết quả này, nhóm nghiên cứu hiện đang điều tra xạ trị với 5 liều lượng được phân phối trong năm ngày liên tục. Như một bước tiếp theo, các nhà nghiên cứu muốn điều tra rút ngắn lại thời gian điều trị bức xạ khoảng một tuần, giáo sư Brunt giải thích. Với một lịch trình như thế này sẽ có ý nghĩa lâm sàng và hiệu quả đáng kể, chẳng hạn như cho phép xạ trị được tích hợp chặt chẽ hơn với phẫu thuật và các liệu pháp khác.
Mặc dù FAST và các thử nghiệm tương tự hỗ trợ việc sử dụng điều trị bức xạ ngày càng gia tăng cho bệnh ung thư vú, tuy nhiên vẫn có một số lượng lớn bệnh nhân đủ điều kiện ở Hoa Kỳ vẫn không nhận được điều trị, và có khả năng không được cung cấp, các khóa xạ trị trong thời gian ngắn hơn. Ở Hoa Kỳ, một nghiên cứu năm 2013 của JAMA đã tìm thấy tỷ lệ chấp nhận là khoảng 30% và phân tích năm 2017 cho Kaiser Health News cho thấy rằng chưa đến một nửa số bệnh nhân trên 50 tuổi mắc bệnh ở giai đoạn đầu được điều trị tăng tốc. Hướng dẫn lâm sàng ASTRO hiện tại cho thấy việc điều trị bức xạ toàn bộ vú, được ban hành vào đầu năm nay và khuyến cáo liệu pháp giảm béo cho bệnh nhân ung thư vú ở mọi độ tuổi, giai đoạn khối u và liệu họ có được hóa trị hay không.
Tổng hợp từ Hội nghị Thường niên lần thứ 60 của Hiệp hội Ung thư Bức xạ Hoa Kỳ (ASTRO)