Các chẩn đoán ung thư vú gia tăng trong đại dịch

Các chẩn đoán ung thư vú gia tăng trong đại dịch

Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là trong những tháng đầu năm. Nhất là những thay đổi sau: Sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thông thường giảm đi, chẳng hạn như khám và sàng lọc y tế định kỳ.

Phát hiện mới, được công bố trên JAMA Network Open vào ngày 15 tháng 2 năm 2022, chứng minh những điều trên. Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư Moores tại UC San Diego Health đã khảo sát và so sánh các chẩn đoán ung thư vú và đại trực tràng giai đoạn sớm và giai đoạn cuối ở những bệnh nhân trước đại dịch (năm 2019) và 2020, năm đầu tiên diễn ra đại dịch COVID-19.

Mặc dù tổng số ca chẩn đoán gần như tương tự vào năm 2019 và 2020, nhưng lại có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phần trăm chẩn đoán ung thư vú ở giai đoạn I so với chẩn đoán ở giai đoạn IV.

Ví dụ, vào năm 2019, có 63,9% bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh giai đoạn I so với 51,3% vào năm 2020. Ngược lại, 1,9% bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn IV vào năm 2019 so với 6,2% vào năm 2020.

(Hầu hết các bệnh ung thư được chỉ định theo giai đoạn tại thời điểm chẩn đoán, từ giai đoạn I khi khối u ác tính giới hạn ở vị trí ban đầu đến giai đoạn IV, khi ung thư đã di căn đến các cơ quan hoặc bộ phận khác của cơ thể. Mỗi giai đoạn cho thấy mức độ khó điều trị của giai đoạn tiến triển và chữa khỏi, từ tiên lượng tốt đến tiên lượng xấu.)

Các khuynh hướng tương tự cũng được tìm thấy trong số các bệnh nhân ung thư đại trực tràng được nghiên cứu, mặc dù mức độ ít hơn so với bệnh nhân ung thư vú.

Bác sĩ Jade Zifei Zhou một nhà nghiên cứu viên lâm sàng về huyết học và ung thư tại Trường Y UC San Diego, cho biết: Đối với bệnh ung thư vú, ít nhất, những dữ liệu này cho thấy một khuynh hướng đang tiếp diễn. Chúng gợi ý rằng những lo ngại và hậu quả do đại dịch gây ra đã khiến một số bệnh nhân phải trì hoãn việc chăm sóc sức khỏe định kỳ, chẳng hạn như khám sàng lọc hoặc thăm khám bác sĩ, điều này có thể được thực hiện những chẩn đoán ở giai đoạn đầu.

Các nhà nghiên cứu ghi nhận một số hạn chế của nghiên cứu:

  • Đầu tiên, nó phản ánh dữ liệu từ một trung tâm duy nhất, và điều này không đánh giá mối quan hệ nhân quả của bệnh.
  • Thứ hai, số bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng tương đối ít. 
  • Thứ ba, nghiên cứu bao gồm những cá nhân đang tìm kiếm ý kiến thứ hai, những trường hợp có thể đã hoặc chưa trải qua bất kỳ phương pháp điều trị nào trước đây.

Bác sĩ Kathryn Ann Gold, chuyên khoa ung thư tại Trung tâm Ung thư Moores và là Giáo sư y khoa tại Trường Y UC San Diego cho biết: Tầm soát ung thư là rất quan trọng để phát hiện sớm ung thư, đặc biệt đối với ung thư đại trực tràng và ung thư vú.

Bà chia sẻ thêm: Ngày càng có nhiều lo ngại rằng một trong những tác động của đại dịch là ngày càng có nhiều bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu tiên ở giai đoạn muộn, không thể chữa khỏi. Do đó những bệnh nhân đã trì hoãn việc chăm sóc phòng ngừa trong thời kỳ đại dịch nên được khuyến khích thảo luận về việc tầm soát ung thư phù hợp với lứa tuổi với nhóm điều trị chính của họ càng sớm càng tốt.

Các câu hỏi liên quan

Xin mời nói. Bạn muốn tìm gì ...